Kịch Hà Nội gây “thương nhớ” cho khán giả Hải Phòng
Cả hai vở diễn dự thi của Nhà hát kịch Hà Nội tại Liên hoan kịch nói toàn quốc 2021 đều có rất đông khán giả đến xem, bởi đơn …
“Thực ra, người lính cũng chỉ là một người bình thường – và rõ ràng, họ càng bình thường bao nhiêu thì khi trở thành anh hùng, họ càng được kính trọng bấy nhiêu. Vì vậy, đừng “tuyệt đối hoá” hình tượng người lính trên sân khấu, bởi như thế nó sẽ không hấp dẫn được khán giả, cả trong và ngoài quân đội”.
Trong cuộc đời làm sân khấu của mình suốt trên nửa thế kỷ qua, tôi đã tham dự rất nhiều các cuộc Liên hoan, Hội diễn, Cuộc thi… Sân khấu toàn quốc, nhưng một trong những Hội diễn đã để lại nhiều ấn tượng nhất trong tôi, chính là Hội diên Sân khấu chuyên nghiệp toàn quân năm 1984 tại Hà Nội – nhân Kỷ niệm 30 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (1954/1984)…
Nhớ lại ngày ấy, Đoàn Nghệ thuật Quân khu II đã tham dự Hội diễn và đoạt Huy chương Bạc với vở Hoa khôi trên núi (tác giả Tất Đạt, đạo diễn Xuân Đàm, hoạ sĩ Lê Huy Quang. Một vở diễn mở hết không gian với phong cách ước lệ, tượng trưng của sân khấu truyền thống, kết hợp với phong cách hiện đại. Núi đồi, rừng cây, sông suối của không gian Tây Bắc, Việt Bắc được cách điệu hoá; với ba khối bục tam giác- vừa là cầu thang nhà sàn, vừa là ruộng bậc thang, vừa là hòn đá ven suối- để hai nhân vật chính là cô gái và chàng trai yêu nhau, chống lại những thế lực phong kiến, thực dân đã định cướp đi tình yêu trong trắng và hạnh phúc mới đơm hoa kết trái của họ.
Đạo diễn Xuân Đàm đã thả hồn vào những sáng tạo của mình trong việc tạo dựng không gian của vở diễn, anh sử dụng các “mảng miếng” của mình một cách hiệu quả nhất, sân khấu luôn luôn là một sân khấu động- đầy ắp những không gian truyền thống, kết hợp một cách nhuần nhuyễn với các thủ pháp hiện đại… Đó là hình tượng vị sĩ quan cựu chiến binh tóc bạc phơ trên biên giới mùa xuân hoa đào, hoa ban xòe nở, khi gặp gỡ những tân binh trẻ đã nhớ lại chặng đường 40 năm với biết bao gian khổ, khó khăn mà họ đã nếm trải. Tình yêu quê hương, đất nước, con người vô cùng bình dị, đẹp đẽ đã giúp họ vượt qua khó khăn và chiến thắng mọi kẻ thù tàn bạo. Chính tình yêu đó của người lính chắp cánh cho họ bay lên – các thế hệ cựu chiến binh và tân binh – tiếp sức cho nhau trong suốt chặng đường dài nửa thế kỷ, cùng cả dân tộc Việt Nam đi về phía trước.
Một vở kịch nói khác cũng đoạt Huy chương bạc Hội diễn năm đó là Điểm tựa không tên của Đoàn Nghệ thuật Quân khu I (tác giả Hồng Phi, đạo diễn Xuân Huyền, họa sĩ Lê Huy Quang) .
Tháng 2/1979, sau một tuần lễ đi thực tế tại biên giới phía Bắc, nhà văn, nhà viết kịch Hồng Phi đã sáng tác vở Những chàng lính trẻ nghịch ngợm (sau này đổi thành Điểm tựa không tên). Vở diễn kể về những chàng lính trẻ trên tuyến đầu chống quân Trung Quốc xâm lược – Họ vô cùng dũng cảm trong chiến đấu, nhưng lại rất đỗi tươi trẻ, hồn nhiên, thậm chí là quá tinh nghịch trong đời sống thường nhật, làm cho không ít các vị chỉ huy phải bực mình, đề nghị xử lý kỷ luật những chàng lính trẻ này… Qua bàn tay dàn dựng của đạo diễn Xuân Huyền, hình tượng những chàng lính trẻ đã thực sự cuốn hút khán giả, nhất là những người lính trẻ xem đêm diễn và gây được xúc động mạnh cho bà con các dân tộc đến thưởng thức vở diễn.
Đó là ấn tượng về hai vở diễn độc đáo của Hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp toàn quân từ năm 1984, nhưng trước thời gian đó, cũng như sau này, chúng ta đã có rất nhiều tác phẩm viết về người lính – Anh Bộ đội Cụ Hồ. Cùng với cả dân tộc, hình ảnh người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam đã trở thành một biểu tượng tiêu biểu cho ý chí “Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Suốt nửa thế kỷ gắn bó với đề tài các lực lượng vũ trang và sân khấu quân đội, qua mỗi tác phẩm của mình, càng ngày tôi càng hiểu hơn về người lính, hiếu hơn về những người cha, người anh thế hệ chống Pháp, những bè bạn của mình cùng thế hệ chống Mỹ, và nhất là những người lính trẻ hôm nay, hiểu hơn về cái sống và cái chết, cái anh hùng, cao thượng và thấp hèn, cả những ước mơ thầm kín, bé nhỏ, giản dị và cuộc đời thường nhật của không biết bao nhiêu người lính giữa một đời sống “hiện đại” ồn ã, xô bồ, náo nhiệt của thời buổi “kinh tế thị trường” hôm nay. Tôi đã cảm nhận rõ ràng hơn về phẩm chất người lính thông qua những vở diễn mà mình đã cộng tác. Từ Đoàn Kịch nói quân đội với Cuộc đời và năm tháng, Hẹn đến ngày mai, Người đàn bà mộng du, Khát vọng đến Đoàn kịch nói Quân khu I với Điểm tựa không tên,..
Từ những kịch múa, thơ múa của Đoàn Ca múa Quân đội, Đoàn ca múa Quân khu II, Quân khu V đến hình ảnh những chiến sĩ không quân, hải quân và bộ đội biên phòng trong các tổ khúc và điệu múa của Đoàn ca múa Không quân, Đoàn Ca múa Hải quân… Tất cả những hình tượng về người lính đầy ắp cảm xúc là những bài học cho tôi hiểu hơn những gì là mất mát hy sinh của cả dân tộc mình, trong đó là các chiến sĩ có danh và vô danh, cả những người sống và những người chết trong hai cuộc kháng chiến, và nhất là những người lính trẻ trên trận tuyến mới hôm nay. Từ vở diễn Cuộc đời và năm tháng (kịch bản và đạo diễn Tạ Xuyên – Đoàn Kịch nói quân đội), tôi đã ghi sâu và cảm nhận về người lính – bình dị, dũng cảm trong chiến tranh, cao thượng trong đời sống và tình cảm riêng tư.
Sau ngày giải phóng miền Nam, cũng chính những người lính bình thường ấy lại lặng lẽ góp phần công sức nhỏ bé của mình vào công cuộc dựng xây đất nước. Họ gạt qua tất cả nước mắt, máu, đắng cay, gian khổ, nguy nan một cách bình thản đến kỳ lạ, bởi hiểu rằng cuộc sống bao giờ cũng là đi lên phía trước. Nếu trong vở Hẹn đến ngày mai (kịch bản và đạo diễn Vũ Minh), tác giả thể hiện hình ảnh những chiến sĩ – những anh lính trẻ hôm nay – như em mình, như con cháu mình, họ yêu đương và hờn giận thật hồn nhiên và tươi trẻ, nhưng giáp mặt với kẻ thù, họ lại dũng cảm hơn bao giờ hết, thì trong vở Người đàn bà mộng du (kịch bản Hà Đình Cẩn, đạo diễn Khánh Vinh), người lính và những cánh rừng Trường Sơn đầy bom đạn và chất độc da cam hiện ra thật rõ ràng, cụ thể và sinh động. Bom đạn không khuất phục được họ. Chất độc da cam không thể tiêu diệt được sự sống mãnh liệt của những người lính.
Suốt 66 năm qua, tính từ ngày Giải phóng Điện Biên Phủ (7/5/1954/2020) và 45 năm ngày Giải phóng miền Nam (30/4-1975/2020), tại Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc, cũng như toàn quân, không ít các đoàn nghệ thuật ngoài quân đội cũng dàn dựng nhiều tác phẩm về người lính, có cả thành công và thất bại. Rõ ràng sân khấu với mảng đề tài người lính đã và đang đòi hỏi không ít sự đầu tư công sức của họ, thì mới phản ánh được những gì là chân thực về người lính. Tuy nhiên, lâu nay, trong lĩnh vực sân khấu, chúng ta thấy xuất hiện các vở diễn trong đó các tác giả chỉ vẽ một cách sơ lược, khô khan hình tượng người lính – chỉ có chiến đấu, chiến thắng, hy sinh.
Hình như chúng ta đã quên mất rằng người lính cũng chỉ là một người bình thường – và rõ ràng họ càng bình thường bao nhiêu, khi trở thành anh hùng, họ càng được kính trọng bấy nhiêu. Và chẳng lẽ tất cả mọi người lính đều phải trở thành anh hùng, họ không thể là một người bình thường mãi sao? Cũng vì “tuyệt đối hóa” người lính, nên hình tượng về họ trên sân khấu không hấp dẫn khán giả trong và ngoài quân đội, cho dù trong tim họ, hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ bao giờ cũng hiện lên đẹp đẽ, thân thiết, đáng yêu.
Bởi, nghĩ cho cùng, đề tài chỉ là cái cớ. Muôn thuở, nghệ thuật phải nói về con người và vì con người – mà với riêng tôi – hình ảnh người lính bao giờ cũng là một bài ca tuyệt vời mãi mãi !